Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

NỘI LỰC CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - LỊCH SỬ VÀ HIỆN THỰC

Cách đây 70 năm, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành tổng khởi nghĩa Tháng Tám đánh đổ ách thống thị của thực dân và chế độ quân chủ giành độc lập tự do, thiết lập chính quyên nhân dân trong cả nước. Sự thật lịch sử đó, cho đến nay vẫn có người nhận định là sự “ăn may”. Steintonessou nhà sử học, trong cuốn sách “Cuộc cách mạng Việt Nam 1945 - Rudơven, Hồ Chí Minh và Đơ Gôn trong một thế giới chiến tranh”[1] mặc dù đã trình bày có thiện chí về Cách mạng Tháng Tám ở nước ta, nhưng ông vẫn cho rằng cuộc cách mạng này không phải là kết quả của sự chuẩn bị công phu, lâu dài, của một kế hoạch cách mạng khoa học, của những dự kiến cách mạng đúng đắn, mà chỉ là kết quả của tình trạng không có chính quyền đứng đầu sau khi quân Nhật đầu hàng. Vậy sự thật lịch sử đã diễn ra như thế nào?

Chúng ta đã biết, đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và tuyên bố lãnh đạo nhân dân đập tan ách thống trị thực dân phong kiên, giành độc lập tự do cho Tổ quốc và ruộng đất cho nông dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục tiêu đó, cao trào cách mạng đầu tiên trong cả nước, cao trào 1930 - 1931 đã được phát động. Công nhân, nông dân theo tiếng gọi của Đảng với nghị phi thường đã lập nên Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Do so sánh lực lượng bất lợi về phía cách mạng nên phong trào tạm lắng xuống và chịu nhiều tổn thất. Mặc dầu vậy, cao trào đã thiết lập được trên thực tế khối liên minh công nông vững chắc và chuẩn bị trận đấu cho cao trào tiếp theo. Những năm 1936 - 1939, nắm bắt được thuận lợi của tình hình quốc tế, đặc biệt là nội tình nước Pháp, Mặt trận Bình Dân thắng cử, lập chính phủ mới đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ. Đảng đã kịp thời phát động cao trào đấu tranh chống phản động thuộc địa và tay sai đòi dân sinh, dân chủ, chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới. Cao trào đã được cả nước hửng ứng sôi nổi, nhiều tổ chức công khai được thành lập, chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi... Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã tập hợp được các giai cấp, đảng phái, mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Thành quả của cao trào là tiền đề trực tiếpcho cao trào mới. Cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổi ra. Đảng đã kịp thời họp Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (9-1939) nhận định: Tình thế cách mạng đã xuất hiện và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược tập trung lực lượng vào nhiệm vụ giải phống dân tộc, giành độc lập dân tộc, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Mọi hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh không còn phù hợp phải chuyển sang hình thức mới bí mật bất hợp pháp là chủ yếu. Tiếp theo là Hội nghị Trung ương 7 (1940) và Hội nghị Trung ương 8 (1940) đã phát triển và cụ thể hóa hơn về xây dựng lực lượng cách mạng, về con đường giành thắng lợi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Sau 5 năm (1939-1945) mặc dù phải chịu nhiều tổn thất hy sinh bởi sự đàn áp dã man tàn bạo của Pháp - Nhật, lực lượng cách mạng đã không ngừng lớn mạnh. Mặt trận Việt Minh đã phát triển rộng khắp trên cả nước. Lực lượng vũ trang tập trung được thành lập và các đội dân quân du kích phát triển rộng khắp mọi nơi. Các cuộc biểu tình, bãi công đòi tăng lương, cứu đói, giảm thuế nổ ra liên tiếp. Hội nghị Thường vụ Trung ương khai mạc ngày 9 tháng 3 năm 1945 cũng là ngày Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương. Sự trùng hợp này càng làm sáng tỏ nhận định trước đây của Đảng: Nhật, Pháp cùng thống trị Đông Dương như cái nhọt bọc nhất định phải vỡ mủ. Mặc dầu, tổng khởi nghĩa cả nước chưa chín muồi nhưng căn cứ vào thực tiễn đã chuẩn bị, Hội nghị quyết định khởi nghĩa từng phần ở những nơi có điều kiện. Hưởng ứng quyết định này, không khí cách mạng sục sôi trong cả nước. Vào đầu tháng 8 - 1945, chính quyền cơ sở nhiều nơi được thành lập, cũng là lúc chủ nghĩa phát xít bại trận, phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh. Sự kiện nổi bật này của thế giới đã được Đảng ta theo dõi và nắm bắt kịp thời. Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 đã quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công nhanh chóng và được đánh dấu sự kết thúc vào ngày tuyên bố độc lập 2 - 9 - 1945.
Nhìn lại những trạng đường dẫn đến thành công của cách mạng cho ta thấy một số vấn đề cơ bản sau đây:
Trước hết, Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự nỗ lực rất cao, kiên trì chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng, kiên trì mục tiêu độc lập tự do của Tổ quốc. Sự kiên trì đó, được đánh dấu kể từ khi Đảng ra đời, trải qua 15 năm liên tục, với ba cao trào cách mạng, cao trào trước làm tiền đề cho cao trào sau và cao trào sau củng cố thắng lợi đã giành được của cao trào trước. Lịch sử Đảng ta khẳng định không có ba cao trào đó, không thể có Cách mạng Tháng Tám. Nhân đây cũng cần lưu ý về nội dung hai khái niệm Cách mạng Tháng Tám và tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám bắt đầu từ ngày 13 - 8 và kết thúc vào ngày tuyên bố độc lập 2 - 9 - 1945. Nhưng dù là khái niệm nào chăng nữa thì thành công của Cách mạng Tháng Tám vai trò chủ yếu quyết định là nỗ lực của Nhân dân Việt Nam trong suốt 15 năm liên tục. Tổng khởi nghĩa là đoạn kết thúc, là màn diễn cuối cùng của chặng đường lịch sử này. Việc phát xít Nhật đầu hàng là điều kiện khách quan rất quan trọng làm cho tổng khởi nghĩa nổ ra nhanh gọn, ít đổ máu, rất thuận lợi cho cách mạng nước ta. Nhưng nếu không có sự kiên trì xây dựng thực lực cách mạng tới mức đủ mạnh thì thời cơ đến cũng không thể hành động được. Cần nhấn mạnh rằng sự kiện phát xít Nhật đầu hàng với các nước trong khu vực, nhưng không phải nước nào cũng chớp được thời cơ.
Cách mạng Tháng Tám thành công là kết quả của đường lối đúng đắn, sự chỉ đạo sắc sảo, kịp thời, những dự kiến chính xác của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã sớm nhận thức thấy tình thế cách mạng xuất hiện từ cuối năm 1939 và lãnh đạo toàn dân ra sức xây dựng lực lượng để tạo ra thời cơ hoặc chợp thời cơ khi nó đến. Nhờ xác định được mục tiêu đúng đắn, đáp ứng lòng mong mỏi, khao khát giành độc lập dân tộc của toàn dân nên được đông đảo quần chúng nhanh chóng hưởng ứng. Lực lượng chuẩn bị cho công cuộc giành chính quyền là toàn dân, cả chính trị và quân sự, từ xây dựng các an toàn khu đến các vùng giải phóng và sẵn sàng bất cứ lúc nào có điều kiện chín muồi là có thể khởi nghĩa giành chính quyền. Tư tưởng thường trực đó được xây dựng trên cơ sở tích cực chuẩn bị đầy đủ nhất cho khởi nghĩa và khi chưa có điều kiện khởi nghĩa là tập dượt cho quần chúng đấu tranh, hoàn toàn khác với tư tưởng cơ hội “đi rình những ngày vĩ đại”, không có sự chuẩn bị lực lượng. Do vậy, khi thời cơ đến là hành động được ngay, hành động khẩn trương, kiên quyết với tinh thần “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập tự do”. Điều đáng chú ý ở Đảng ta là tầm nhìn xa thấy rộng của Chủ tịch Hồ chí Minh. Người đã dự báo chính xác về thời cơ và tỉnh táo nhận rõ những điều kiện của khởi nghĩa. Năm 1942 viết cuốn “Lịch sử nước ta” bằng thơ lục bát dưới cùng Người ghi một dự đoán quan trọng “Năm 1945 Việt Nam độc lập”. Năm 1944, Người đình chỉ kịp thời cuộc khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng dự định tổ chức, vì chưa có thời cơ khởi nghĩa trong cản nước và sau đó (tháng 10 năm 1944) Người gửi thư cho đồng bào toàn quốc nhận định: “Cơ hội cho toàn dân tộc giải phóng chỉ trong một năm hoặc năm rưỡi nữa, thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”[2]. Đúng theo dự đoán của Người, tổng khởi nghĩa đã đến vào tháng 8 năm 1945. Như vậy, là khi đã có lực lượng và cùng với việc chuẩn bị lực lượng là vấn đề tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ. Nếu bỏ lỡ thời cơ hoặc “khởi nghĩa non” cũng phải trả giá đắt cho sự thất bại. Chỉ thị của Đảng “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12 tháng 3 năm 1945) có thể xem như một mẫu mực về sự chỉ đạo sắc bén giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa lực lượng - thời cơ, giữa khởi nghĩa từng phần và tổng khởi nghĩa. Nhân đây cũng cần nói rõ rằng, sau ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, chính quyền tay sai thuộc về Nhật, chúng đã sử dụng chính quyền này để thống trị Đông Dương, phục vụ nhu cầu của quân đội Nhật. Như vậy, nhân dân ta giành chính quyền từ tay phát xít Nhật chứ không phải là “khoảng trống quyền lực”, trong tình trạng không có chính quyền của Cách mạng Tháng Tám như một số người đã nhận định.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực tự cường. Người kêu gọi: “Đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”[3]. Đó là vấn đề xuyên suốt trong tư tưởng của Người từ khi viết “Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa” năm 1922 và được thể hiện trong việc phát huy nội lực của Cách mạng Tháng Tám. Trong cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân ta được sự giúp đơ to lớn có hiệu quả của bạn bè quốc tế, không có sự giúp đỡ đó cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, chúng ta hiểu rất rõ nội lực bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã như vậy, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa điều này lại càng quan trọng hơn rất nhiều. Đó là vấn đề cơ bản cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là bài học xuyên suốt của cách mạng nước ta.
Nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế... Nghị quyết của Đảng không chỉ căn cứ vào nhu cầu thực tiễn hiện nay mà còn xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh, từ bài học lịch sử.
Ngày nay, đẩy mạnh tự lực tự cường, xây dựng và củng cố nội lực vững chắc có nghĩa là tạo ra cơ sở hạ tầng thuận tiện cho việc kinh doanh phát triển sản xuất, tạo môi trường lành mạnh cho đầu tư phát triển, thu hút vốn nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều. Các nước chỉ có thể đầu tư và quan hệ với nước ta khi họ thấy nội lực của ta vững chắc. Nội lực là cơ sở để đẩy mạnh hợp tác với bên ngoài. Nhiều chuyên gia kinh tế đã cho rằng để tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài ít nhất chúng ta phải có tỷ lệ 1 - 1. Điều đó chứng tỏ mức độ phát triển kinh tế đối ngoại tùy thuộc vào nội lực của chúng ta. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng nội lực sẽ giúp Đảng và Chính phủ ta chủ động trong mọi tình huống nhất là những lúc kinh tế thế giới hoặc khu vực gặp khó khăn, khủng hoảng. Ngày nay, cũng cần phải hiểu nội lực một cách toàn diện bao gồm trước hết là yếu tố con người với phẩm chất, năng lực và các yếu tố khác, sau đó là đất đai, tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật, và cả những kinh nghiệm đã được tích lỹ. Phát huy nội lực phải quán triệt sâu sắc quan điểm cần kiệm để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, tình trạng tiêu dùng quá mức, lãng phí, tham nhũng... đang là nguy cơ không nhỏ làm vô hiệu hóa quan điểm cần kiệm. Phát huy nội lực phải nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này, đòi hỏi phải nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, giảm giá thành của hàng hóa, khuyến khích đổi mới công nghệ, phương pháp quản lý và phát triển mạnh mẽ giáo dục khoa học, nâng cao dân trí... Phát huy nội lực phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy nội lực còn phải nêu cao ý chí tự lực tự cường giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử cách mạng nước ta chứng minh rằng nội lực luôn luôn là yếu tố quyết định nhưng tận dụng ngoại lực là rất quan trọng. Phát huy nội lực không đồng nghĩa với tư tưởng bài ngoại, trái lại càng làm cho hợp tác quốc tế được mở rộng và hiệu quả. Trong tình hình hiện nay, nếu như “đóng cửa” là rơi vào trí trệ tụt hậu nhanh và xa so với các nước. Nhưng để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại lực thì nội lực phải đủ mạnh và vững chắc.



[1] Nhà xuất bản Sagen (Anh), 1991, đã dịch ra tiếng Việt năm 1977
[2] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2.000, tr.505-506
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 554

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét