Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG VÀ BÀI HỌC CHỦ ĐỘNG BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY

ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG VÀ BÀI HỌC CHỦ ĐỘNG
BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY

                                               Đại tá, TS Nguyễn Đức Ngọc
                                               Chủ nhiệm khoa Lịch sử Đảng

Cuộc tiến công chiến lược nửa đầu năm 1972 trên chiến trường miền Nam thắng lớn đã làm chuyển biến cục diện chiến tranh, góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ ký Hiệp định Pari, nhưng Mỹ đã tráo trở, lật lọng. Sở dĩ có tình hình đó, là do bản chất ngoan cố, hiếu chiến của họ và do tình hính nước Mỹ. Nich xơn tuy đồng ý với dự thảo Hiệp định, nhưng không muốn ký ngay, bởi có một số điều khoản bất lợi cho Mỹ. Mỹ toan tính: nếu chần chừ kéo dài, đánh thêm một đòn quân sự nữa sẽ ép Viêt Nam phải nhượng bộ nhiều hơn và có thời gian viện trợ cấp tốc vực ngụy quân, ngụy quyền mạnh lên khi Mỹ rút quân. Đưa ra ý tưởng này, Nich xơn cũng đã cân nhắc không lo phản ứng của Liên xô, Trung quốc, vì trước đó Nich xơn đã đến thăm[1], tìm cách cải thiện quan hệ với những nước này và cô lập Việt Nam. Mặt khác, nếu ký trước thềm bầu cử Tổng thống có thể làm cho các cử tri “bảo thủ” Mỹ không bằng lòng, do đó giảm khẳ năng thắng cử của Nich xơn. Thực hiện mưu đồ xảo quyệt đó, Kítxinhgiơ đã không đến Hà Nội như dự kiến để ký tắt Hiệp định[2] và sau thắng cử (7- 11- 1972) Nich xơn quyết định mở cuộc tập kích B52 vào Hà Nội - Hải Phòng mang tên Lainơbêchcơ II. Mục đích cuộc tập kích nhằm phá hoại nặng tiềm lực kinh tế - quốc phòng của miền Bắc, đánh phá có tính hủy diệt gây khủng khiếp trong nhân dân, tạo lên hậu quả tàn phá lớn khiến Việt Nam phải khắc phục lâu dài, nhằm buộc ta trở lại bàn thương lượng ở thế yếu và hạ thấp một số điều khoản trong Hiệp định có lợi cho Mỹ.
Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng của ta chống lại Cuộc tập kích chiến lược B52 của đế quốc Mỹ từ ngày 18 đến ngày 29 - 12-1972. Mười hai ngày đêm ấy, quân và dân ta phải đánh trả hơn 1 nghìn lần chiếc máy bay các loại, trong đó 740 lần chiếc máy bay B52, chúng đánh phá hủy diệt rất dã man các khu dân cư như Khâm Thiên, Bệnh viên Bạch Mai…. Hà Nội, Mặc dầu vậy, ta đã thắng lớn, bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 máy bay B52, hàng trăm giặc lái bị chết và bắt sống[3]. Thiệt hại lớn đó làm cho đế quốc Mỹ      không chịu nổi, buộc phải kết thúc Cuộc tập kích và ngừng nén bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Chiến dịch đã đạt tới mức tiêu diệt cao nhất, oanh liệt nhất, trong cuộc chiến đấu bảo vệ miên Bắc. Đây cũng là chiến dịch phòng không đầu tiên trên thế giới tiêu diệt nhiều máy bay chiến lược B52 của đế quốc Mỹ, giáng cho không quân Mỹ đòn thất bại nặng nề trong lịch sử xâm lược của nó. Chiến thắng đã nhấn chìm ý đồ đàm phán trên thế mạnh của Nich xơn, buộc phải đề nghị gặp đại biểu ta bàn ký Hiệp định. Chiến thắng đã góp phần giành thắng lợi quyết định: quân Mỹ rút khỏi miền Nam, thế và lực cách mạng hơn hẳn ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, tạo tiền đề tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Với ý nghĩa và tầm vóc đó, dư luận thế giới gọi là trận  “Điên Biên Phủ trên không”.
Dẫn đến thắng lợi trận “Điên Biên Phủ trên không” do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật xuyên suốt là Đảng và nhân dân ta chủ động, sáng tạo trong phòng tránh đánh trả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, đặc biệt thủ đô Hà Nội.
Với Đảng ta, Mỹ đánh phá hủy diệt Hà Nội không phải là điều bất ngờ. Tháng 7 - 1966, trước tình hình chiến tranh phá hoại ngày càng mở rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! không có gì quý hơn độc lập tự do”[4]. Như vậy, Người đã biểu thị quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân đồng thời dự báo Hà Nội, Hải Phòng có thể là một trọng điểm tàn phá và là điều kiện để đế quốc Mỹ mặc cả với ta ở nấc thang chiến tranh này. Đến cuối năm 1967, Người nói rõ hơn “Sớm muộn đế quốc Mỹ sẽ đưa B52 đánh ra Hà Nội trước khi chúng chịu thua trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam”[5] Theo chỉ dẫn đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đảng ta luôn luôn bám sát tình hình thực tiễn, chuẩn bị đối phó với bước leo thang cao nhất, Mỹ có thể đánh phá hủy diệt Hà Nội - Hải Phòng. Vì thế, ngay sau khi Nich xơn ra lệnh ngừng ném bom và bắn phá bắc vĩ tuyến 20 trở ra (22-10-1972) Quân ủy Trung ương nhận định “Địch sẽ tập trung đánh phá ác liệt từ Thanh Hóa trở vào, đồng thời có khả năng chúng sẽ đánh phá lại miền Bắc. Do đó, trong khi tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến đấu bảo vệ giao thông ở phía Nam ta phải nâng cao cánh giác, tích cực chuẩn bị luôn luôn sẵn sàng chiến đấu ở phía Bắc để đối phó có hiệu quả khi địch đánh trở lại”[6] . trước tình hình dây dưa, lật lọng không ký Hiệp định Pari ngày 27-11-1972. Quân ủy Trung ương nhận định rõ hơn “Có khả năng địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền Bắc với mức độ ác liệt hơn kể cả dùng B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội - Hải Phòng”[7] Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị phải sẵn sàng chiến đấu cao. dự báo và nhận định nêu trên đã biến thành chủ trương và hành động cụ thể của Đảng và quân dân ta chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng quân và dân ta đã nỗ lực chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu giánh trả đích đáng trận tập kích bằng không quân hiện đại của đế quốc Mỹ.
Vấn đề bảo vệ dân được đặt lên hàng đầu. Các Hội đồng phòng không nhân dân ở các thành phố, thị xã, khu công nghiệp khẩn trương sơ tán dân. Trong khu phòng thủ trọng điểm, Hà Nội sơ tán 54 vạn dân nội thành trong tổng số 64 vạn dân, Hải Phòng sơ tán 21 vạn dân trong tổng số 27 vạn dân. Số còn lại phần lớn là những người trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu và công tác. Về chuẩn bị lực lượng ta đã huy động 50% đơn vị cao xạ, 60% đơn vị tên lửa, 100% đơn vị không quân chiến đấu cho chiến dịch. các đơn vị phòng không của quân khu, các tỉnh lân cận nhận được lệnh phối hợp chiến đấu. Ngoài ra, lực lượng đông đảo các đơn vị, bắn máy bay tầm thấp của quân dân tự vệ cũng nằm trong đội hình chiến dịch. Để nâng cao chất lượng chiến đấu, các trận địa phòng không và hầm hào phòng, tránh cũng được củng cố. Các lực lượng vũ trang, đặc biệt phòng không không quân đều được tập huấn nhằm nâng cao trình độ tác chiến lên ngàng tầm với đòi hỏi chống B52 của Địch. Theo đó, các tài liệu về máy bay B52 được phổ biến, nan giải và khó khăn nhất là chống nhiễu do đối phương gây ra cũng được giải quyết.
Cả miền Bắc xung trận, đặc biệt Hà Nội - Hải Phòng nơi diễn ra chiến dịch khí thế dâng lên rất cao. Bộ Chính trị và cơ quan đầu não chỉ huy giữ nguyên vị trí để chỉ đạo kịp thời, sát diễn biến của tình hình, đồng thời động viên củng cố ý chí chiến đấu và niềm tin của nhân dân. Do ta bố trí phòng không nhiếu tầng, nhiều hướng, nhiều lực lượng nên các đơn vị đều lập công. Tên lửa, pháo phòng không, máy bay MIC, diệt B52 trong đó tên lửa bắn rơi 30 chiếc. Các trận địa pháo của dân quân tự vệ băn rơi 11 chiếc tầm thấp, bắt sống nhiều giặc lái[8]. Đăc biệt bộ đội Ra Đa chống được nhiễu, phát hiện sớm máy bay địch từ 25 đến 30 phút, giữ trọn lời thề “không để Tổ quốc bị bất ngờ” Các lực lượng phụ vụ chiến đấu tiếp lương, tải đạn, khắc vục hậu quả nhanh, gọn. Do làm tốt công tác phòng không, sơ tán, nên thiệt hại về người và của ở mức thấp nhất. Rõ ràng “Điên Biên Phủ trên không” là Chiến dịch phòng không nhân dân đánh bại chiến tranh công nghệ cao của đế quốc Mỹ. Chiến dịch đã góp phần đánh bại ý chí xâm lược Việt Nam của tập đoàn Nich xơn. Ngày 6-1-1973 Ông ta chỉ thị cho Kítxinhgiơ “Cần đạt nhanh một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện khắt khe”[9].
“Điện Biên Phủ trên không” trong điều kiện miền Bắc kinh tế rất khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém so với đối phương, lại cùng lúc thực hiện nhiệm vụ, chống chiến tranh phá hoại, giải phóng miền Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế với Lào và Cămpuchia, nhưng chúng ta đã thắng, thực tiễn đó cho chúng ta bài học: Trong điều kiện kinh tế, vật chất kỹ thuật còn hạn chế, nhưng một Đảng, một dân tộc, đồng tâm nhất trí biết chủ động, sáng tạo, hoàn toàn có thể khắc phục những yếu kém, giáng trả đích đáng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, dù cho chúng tiến hành chiến tranh vũ khí công nghệ cao. Bài học giữ nguyên giá trị hiện thực chủ động, sáng tạo bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bài học cho thấy, trước hết phải chủ động nâng cao tinh thần yêu nước, tinh thần cảnh giác với mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của các thế lực thù địch, trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Ngay từ thời bình, phải tuyên truyền giáo dục sâu rộng vấn đề này, vì trong khi tập trung xây dựng kinh tế và hội nhập quốc tế làm cho đất nước giầu mạnh lên thì một số người không     hiểu sâu sắc điều đó, họ ngộ nhận về “một thế giới đại đồng” và “ một Tổ quốc hòa bình, độc lập vĩnh cửu”, nên với họ, không có kẻ thù, không có đối tượng tác chiến. Nhưng thực tiễn không như họ nghĩ. Chiến tranh thế giới tuy chưa xảy ra, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh chấp đất liền, biển, đáo… đang diễn ra ở nhiều nơi.Trên đầu nước ta, kẻ thù vẫn nhòm ngó và ấp ủ mưu đồ xâm lược, chúng xây dựng các tổ chức chính trị phản động trong nội địa và lưu vong, gây mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, vùng miền, kích động quần chúng biểu tình chống Đảng, Nhà nước và sẵn sàng bạo loạn lật đổ. Chúng còn thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với hy vọng, cán bộ, đảng viên sẽ “tự diễn biến” để chúng không đánh mà thắng. Tình hình nêu trên đòi hỏi Đảng, Nhà nước, phải chủ động tuyền truyền giáo dục, để người dân cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch. Theo đó, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, trong thời kỳ mới “nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều thực hành vào công cuộc yêu nước…”[10]. Chỉ dẫn đó cho thấy, phải làm cho mọi người nhận thức sâu sắc kinh tế - quốc phòng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kinh tế phát triển, đất nước giàu mạnh về mọi mặt cũng là tiềm lực và sức mạnh của quốc phòng. Ngược lại, một nền quốc phòng vững mạnh, hiện đại, mới đủ sức bảo vệ phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ và tham gia xây dựng kinh tế. Tuy vậy, hai nhiệm vụ đó không thể thay thế nhau và không phải là một. Nhận thức sâu sắc điều đó thì dù có khác nhau: người trực tiếp sản xuất hay giám tiếp, là viên chức nhà nước hay giới kinh doanh, người trong nước hay ở ngoài nước đều có thể góp phần mình vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong đó giữ gìn bí mật quốc gia, vì lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí chung của tinh thần yêu nước.
Trong khi chủ động làm tốt công tác chính trị tư tưởng, đồng thời phải chủ động chuẩn bị các mặt khác, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù nếu chúng liều lĩnh xâm lược Tổ quốc. Theo tinh thần đó, trước hết phải làm tốt công tác dự báo chiến lược. Đáp ứng đòi hỏi này phải theo dõi, bám sát tình hình, đánh giá đúng tình hình đồng thời bổ sung những nhận định mới, từng bước hoàn thiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, không để bị bất ngờ trong mọi tình huống. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc phải được chuẩn bị theo hướng chất lượng cao. Quân đội nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc phải chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lực lượng dân quân tự vệ phải rộng khắp và thường xuyên tập huấn, lực lượng dự bị động viên phải chuẩn bị theo hướng tuyển chọn đội ngũ cán bộ sĩ quan được đào tạo và rèn luyện cơ bản, bổ xung kịp thời khi có thay đổi nhân sự, định kỳ tập huấn cung cấp kiến thức mới, yêu cầu mới cho họ. Binh khí kỹ thuật, cơ sở vật chất từng bước phải được tăng cường đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại, chống chiến tranh vũ khí công nghệ cao, trước hết trang bị cho quân đội. Tuy nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát triển cao, nhưng vẫn phải có một tỷ lệ nhất định để sản xuất hoặc mua sắm trang bị vũ khí cần thiết mà không chờ cho kinh tế phát triển thật đầy đủ mới sản xuất hoặc mua sắm. Phải chuẩn bị chu đáo các khu vực phòng thủ. Theo đó, ở các khu vực này phải có các phương án chiến đấu theo tưởng định, phải định kỳ diễn tập, thực hành bố trí kho tàng, bến, bãi, phải thực sự, thực tế, không hình thức, hời hợt. Cần làm cho mọi người nhận thức sâu sắc sẵn sàng diễn tập là hình thức huấn luyện tổng hợp thực tế, do đó các cấp, các ngành, và toàn dân đều phải vào cuộc. Nên trách những biểu hiện “bớt xén”, làm chiếu lệ trong quá trình củng cố và hoàn thiện các khu vực phòng thủ.
        Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo giành thắng lợi “Điện Biên Phủ trên không” Năm xưa (1972), Đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Đại hội lần thứ XI của Đảng (2001) chỉ rõ phải “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả tiềm lực và thế trận xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Quyết định đó, cũng là thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh   phải thường xuyên quan tâm “củng cố quốc phòng”[11]… “Phải luôn luôn tỉnh táo, giữ vững lập trường quyết không được vì hoàn cảnh hòa bình mà mất cảnh giác. Phải luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân”[12]







[1] Ních Xơn thăm Trung Quốc tháng 2-1972; thăm Liên Xô tháng 5-1972
[2] Mỹ thỏa thuận với ta ngày 24-10-1972, Kitxinggiơ sẽ đến Hà Nội để ký tắt Hiệp định, ngày 27-10-1972 công bố Hiệp định ở thủ đô hai nước; ngày 31-10 ký kết chính thức tại Pa ri.
[3] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Tập 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr 578
[4] Hồ Chí Minh  Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2000. tr 108
[5] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập 2, Nxb CTQG, H 1995, tr 566
[6] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, H 1988, tr 267
[7] Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, H 1988, tr 267
[8] Số liệu dẫn trong Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 (1954-1975) Viện nghiên cứu chủ nghĩa mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
[9] Kítxinhgiơ, Những năm tháng ở Nhà trắng, Nxb Pâya, Pari, tr 1175
[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, nxb CTQG, H 2000, tr 172
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, nxb CTQG, H 2000, tr 505
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H 2000, tr 311

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TIẾN HÀNH CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ Ở SƯ ĐOÀN BỘ BINH 10, QUÂN ĐOÀN 3

 MỘT SỐ KINH NGHIỆM TIẾN HÀNH CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ Ở SƯ ĐOÀN BỘ BINH 10, QUÂN ĐOÀN 3
        Đại tá, TS Nguyễn Đức Ngọc
CN Khoa Lịch sử Đảng
Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 là đơn vị bộ binh chủ lực đủ quân, được thành lập vào ngày 20 tháng  9 năm 1972 tại Đăk Tô, Tân Cảnh, Kon Tum. Trải qua 40 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Sư đoàn đã cơ động chiến đấu trên khắp các chiến trường Tây Nguyên, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh chiếm sân bay Sơn Tân Nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy, giải phóng Sai Gòn. Chiến đấu ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Cămpuchia…. Dù ở chiến trường nào, cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn cũng luôn vượt qua mọi khó khăn thử thách, hy sinh, gian khổ, ác liệt… để chiến đấu kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, lập nhiều chiến công vang dội, xây dựng nên truyền thống vẻ vang: “Đoàn kết, thống nhất, kiên cường, quyết thắng”. Sư đoàn được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Ang hùng lực lượng vũ trang nhân dân 2 lần vào các năm 1975, 1979. Đồng thời, trong đội hình của Sư đoàn còn có 1 trung đoàn 3 lần, 2 trung đoàn được1 lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Hiện nay, Sư đoàn đóng quân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên địa hình phức tạp, khí hậu thời tiết khắc nhiệt, có nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau. Nhiệm vụ chính trị của Sư đoàn là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; làm lực lượng cơ động của Bộ quốc phòng. Đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất tốt, năng lực khá, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các tổ chức đảng thường xuyên được củng cố, kiện toàn, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu tốt, đạt trong sạch vững mạnh nhiều năm liền. Trong những năm đổi mới vừa qua, Sư đoàn luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, được Chính phủ, Bộ Quốc phòng tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý.
Từ thực tiễn hoạt động thời gian qua, đặc biệt từ khi có Chỉ thị 917 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, Sư đoàn rút ra một số kinh nghiệm hoạt động công tác đảng, công tác chính trị như sau:
1. Thường xuyên nắm vững nhiệm vụ chính trị và tình hình mọi mặt, kiên định vững vàng lập chính trị của Đảng; phát huy dân chủ, tập trung được trí tuệ của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo kịp thời, sát đúng.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu đã và đang đặt ra yêu cầu mới rất cao đối với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện của Sư đoàn. Nếu cán bộ, đảng viên của Sư đoàn không thường xuyên nắm vững nhiệm vụ chính trị, không kiên định vững vàng lập trường tư tưởng; không kịp thời nắm bắt thực tiễn, phát huy dân chủ, tập trung được trí tuệ của mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, giúp cho các tổ chức đảng đề ra được chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn, thì Sư đoàn không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Mặt khác, để nâng cao chất lượng sinh hoạt lãnh đạo, Đảng ủy Sư đoàn đã chỉ đạo các đảng ủy, các chi bộ trực thuộc phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình ra nghị quyết lãnh đạo, trong đó đặc biệt chú ý dự thảo nghị quyết phải toàn diện, nhưng tập trung vào trọng điểm, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện; trong kiểm điểm đánh giá phải chỉ rõ việc, rõ người, chỉ ra được nguyên nhân, quy trách nhiệm rõ ràng; chủ trương, biện pháp phải sát đúng, cụ thể, có tính khả thi; tránh dàn đều trên tất cả các mặt hoặc chung chung, thiên về kêu gọi, hô hào….
2. Chấp hành nghiêm chế độ soạn thảo và thực hiện kế hoạch, chương trình công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ,CTCT); làm đầy đủ các văn kiện khác theo đúng quy định của Tổng cục Chính trị, góp phần bảo đảm cho hoạt động CTĐ,CTCT của Sư đoàn có tính kế hoạch thống nhất, có chất lượng và hiệu quả tốt.
Thực hiện nghiêm Quyết định số 526/QĐ-CT của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Sư đoàn đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn, thống nhất về quy cách, kết cấu, cách làm các văn kiện, ghi chép sổ sách CTĐ,CTCT cho cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính ủy, chính trị viên tiểu đoàn, đại đội. Hàng tháng, hàng tuần và đột xuất, chỉ huy Sư đoàn, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị cấp trên kiểm tra việc soạn thảo và thực hiện kế hoạch, chương trình đã được phê duyệt, việc ghi chép sổ sách CTĐ,CTCT của các đơn vị, kịp thời phát hiện những sai sót, khiếm khuyết, chỉ cách bổ sung, sửa chữa cho đúng với quy trình của Tổng cục Chính trị, phù hợp với thực tiễn của đơn vị. Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn rất coi trọng chỉ đạo, kiểm tra việc lập và kiểm tra kế hoạch CTĐ,CTCT trong các nhiệm vụ như: nhiệm vụ tác chiến đánh địch đổ bộ đường không, bảo vệ mục tiêu quan trọng; cơ động lực lượng ra khu vực sơ tán; chiến đấu bảo vệ cơ quan, đơn vị; đóng quân canh phòng; phòng chống cháy nổ, bảo vệ cơ quan, đơn vị trú quân, canh phòng tại khu vực tập trung; chống khủng bố; diễn tập chiến thuật tổng hợp và một số hình thức chiến thuật khác. Quá trình đó đã giúp cho lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn nắm chắc và điều hành một cách khoa học, có chất lượng, hiệu quả các hoạt động CTĐ,CTCT, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Sư đoàn.
3. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực và tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn nhận thức đúng đắn vai trò của công tác cán bộ, làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, chọn nguồn đi đào tạo. Việc nhận xét, đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ được tiến hành đúng nguyên tắc, bảo đảm dân chủ, công minh, khách quan, thường xuyên tổ chức gặp gỡ đội ngũ cán bộ để nắm tình hình, tâm tư nguyện vọng; giải quyết những khó khăn, vứng mắc; động viên cán bộ nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ. Sư đoàn cũng thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn cán bộ bằng nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với trình độ nhận thức của đội ngũ cán bộ và tình hình đơn vị. Do vậy, đội ngũ cán bộ của Sư đoàn có lập trường tư tưởng chính trị kiên định
 vững vàng, chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ và chế độ quy định của đơn vị, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong xây dựng đơn vị; thường xuyên tự tu dưỡng, học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức và năng lực công tác, đáp ứng nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao của Sư đoàn.
4. Coi trọng xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, gắn chặt với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn chú trọng xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh được tiến hành cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng cấp ủy, chi bộ trong sạch vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất và năng lực tốt; giữ vững chế độ, nền nếp sinh hoạt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo của Đảng. Sư đoàn thường xuyên làm tốt công tác kiện toàn, bổ sung cấp ủy các cấp đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, phấn đấu ở chi bộ có cấp ủy, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy các cấp bằng các hình thức như: thi bí thư chi bộ giỏi, bồi dưỡng các quy định, hướng dẫn của trên; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, duy trì có nền nếp chế độ sinh hoạt, các tổ chức đảng đều có quy chế làm việc, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa cấp ủy và bí thư và người chỉ huy cùng cấp; phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp ủy viên gắn với mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị trên từng mảng công tác; thường xuyên làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và làm tốt công tác phát triển đảng viên mới.
Sư đoàn đã triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Trong đó, Đảng ủy Sư đoàn chú trọng giải pháp quan trọng là phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thực sự ngang tầm nhiệm vụ, việc bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng đảng cho đội ngũ bí thư. Đảng ủy Sư đoàn tập trung lãnh đạo thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp: một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của Đảng ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng đối với công tác bồi dưỡng năng lực xây dựng đảng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên và đảng viên; hai là, xác định đúng nội dung, xây dựng và thực hiện tốt chương trình, kế hoạch, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng đảng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên và bí thư chi bộ; ba là, kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng năng lực xây dựng đảng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên và đảng viên với xây dựng đảng ủy, cấp ủy, chi bộ trong sạch, vững mạnh. Để đội ngũ này thực sự là những đảng viên ưu tú nhất của đảng ủy, chi bộ, có phẩm chất, năng lực tốt, có uy tín cao trước tập thể và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tự học, tự bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng đảng.

Qua học tập và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), toàn Đảng bộ Sư đoàn đã nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu thực sự là hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo Sư đoàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ, đảng viên Sư đoàn nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình, chủ động khắc phục khó khăn, luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, coi tự học tập, tự rèn luyện, tự bồi dưỡng và trau rồi về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực toàn diện và thực tế năng lực công tác xây dựng đảng là trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ xây dựng Sư đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng ở đơn vị quân đội trong tình hình hiện nay.

CHỐNG “DIỄN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, BẢO VỆ ĐẢNG, CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

CHỐNG “DIỄN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC
CHÍNH TRỊ, BẢO VỆ ĐẢNG, CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

                          Đại tá, TS Nguyễn Đức Ngọc
                             Chủ nhiệm Khoa Lịch sử Đảng
                          trung tá, cử nhân Vũ thế Thực
                        Cao học Lịch sử Đảng, HVCT

Chiến lược “diễn biến hòa bình” là một chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực thù địch nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, CNĐQ và các thế lực thù địch tập trung mũi nhọn phá ta trên lĩnh vực chính trị nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa về chính trị, từ đó thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Để thực hiện được mục tiêu trên, CNĐQ và các thế lực thù địch đã và đang triển khai nhiều thủ đoạn, biện pháp chiến lược chống phá ta trên lĩnh vực chính trị như: chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chiến lược “khoét sâu vào nội bộ”; chiến lược “chi phối đầu tư”; chiến lược triệt để lợi dụng mặt trái cơ chế thị trường; triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… Hiện nay, chúng tập trung chống phá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bạch về xây dựng Đảng hiện nay”, trọng điểm là Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI); chúng lợi dụng đóng góp vào sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để chống ta quyết liệt nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (đã được quy định Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992), và thực hiện mưu đồ phí chính trị hóa trong quân đội và công an, tuyên truyền luận điểm “quân đội trung lập về chính trị, “quân đội đứng ngoài chính trị”, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đối lập quân đội với Đảng, với nhân dân, lôi kéo quân đội xa rời hệ tư tưởng Mác – Lênin, tạo ra cái “chân không ý thức hệ” nhằm vô hiệu hóa quân đội cách mạng, làm cho quân đội mất phương hướng chính trị, quân đội không còn là công cụ sắc bén bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn trên, là mưu đồ nham hiểm, mục tiêu nhất quán và việc làm thường xuyên của các thế lực thù địch. Để thực hiện được mưu đồ đó, chúng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biễn”, “tự chuyển hóa” bằng biện pháp tổng hợp và thủ đoạn tinh vi trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, ngoại giao và văn hóa, xã hội…, trong đó lợi dụng Intơrnet để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, lôi kéo, tổ chức lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa là biện pháp rất nguy hiểm. Qua các trang mạng, tờ báo, tạp chí, đài phát thanh tiếng Việt ngày đêm chĩa mĩu nhọn chống phá Việt Nam làm chệch hướng đường lối, chính sách, pháp luật Việt Nam, “làm trượt tiêu các giá trị làm nên chế độ cộng sản”. Theo họ, chừng nào còn Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta thì khi đó, vai trò và sứ mệnh xây dựng một thế giới tự do, dân chủ kiểu phương Tây vẫn chưa thành công, và họ chưa làm bá chủ thế giới. Đây là ảo vọng ngông cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đi ngược lại lợi ích dân tộc và xu thế thời đại.
 Để nhận rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trai, thù địch, các nhận thức lệch lạc, nhằm bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Trong các văn kiện đại hội ở thời kỳ đổi mới, Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng: Đại hội VII của Đảng yêu cầu các cấp, các ngành và toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân “Nêu cao cảnh giác chống mọi âm mưu và thủ đoạn chia rẽ, phá hoại của kẻ thù đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[1]. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực là một trong bốn nguy cơ[2], Đại hội VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch”[3], “Uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng”[4]. Đại hội IX của Đảng Khẳng định: “Phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”[5]. Với quan điểm trên đây, Đại hội X của Đảng đã yêu cầu: “Chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điểm phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch”[6]. Đến Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên"[7]. Như vậy, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trai, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu, và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một chủ trương kiên quyết và nhất quán của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối vớ sự nghiệp đổi mới và vận mệnh của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
          Thực tế đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị được triển khai đồng bộ, các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ hơn về âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị của các thế lực thù địch. Ý thức phòng, chống trong từng tổ chức và số đông cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng tích cực hơn. Các cơ quan chức năng đã có sự chủ động nắm các hoạt động, chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, linh hoạt trong đấu tranh giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị nhằm chống các quan điểm sai trái, thù địch cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ đặt ra. Việc triển khai các nghị quyết, chỉ thị, thông báo,  kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ở một số ngành, địa phương còn mang tính hình thức, chưa có sự quyết tâm cao trong chống “diễn biến hòa bình”. Việc phản bác các luận điệu tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng Intơrnet hiệu quả chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhận thức mơ hồ về chiến lược “diễn biến hòa bình”, đặc biệt là chưa nhận rõ nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nên kết quả chống “diễn biến hòa bình”… trong thời gian vừa qua còn nhiều hạn chế.
Trong điều kiện hiện nay, để cho cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị đạt hiệu quả cao, góp phần bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây.
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tâm, đức trong sáng, gần gũi nhân dân và vì  nhân dân phục vụ. Qua đó, xây dựng nền tảng đạo đức trong sáng trong Đảng và lối sống cao đẹp cho cán bộ, đảng viên. Kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong xã hội, củng cố niềm tin và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Cần rà soát, điều chỉnh một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương cho phù hợp với tình hình mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu an sinh xã hội, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không để kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, nói sấu Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu và thực hiện đúng. Tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Chúng ta phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho các đối tượng, giúp họ nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đề cao ý thức cảnh giác cách mạng, có sức “miễn dịch” trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Ba là, Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh; triển khai có hiệu quả Cuộc vận động “học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; chăm lo xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, Đảng phải thực sự tiên phong về lý luận và thực tiễn. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, nhất là đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang, làm cơ sở để lực lượng vũ trang thực sự giữ vững vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng củng cố thế trận an ninh nhân dân. Chú trọng các biện pháp nắm tình hình ở cơ sở, kịp thời phát hiện các hoạt động chống phá và xâm nhập trái phép của bọn phản động, để có biện pháp quản lý, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên ở cả Trung ương, các ngành, các cấp và các địa phương. Nắm chắc các hoạt động chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước, để có các phương án đấu tranh kịp thời, hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống các luận điệu phủ định, bóp méo chủ nghĩa Mác – Lênin, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; Vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước ta, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ và khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, dù có che đậy tinh vi đến đâu, bản chất của các thủ đoạn trên là không thay đổi. Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của các thế lực thù địch đối với nước ta là thực hiện “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm xụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, đưa Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Năm là, tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, kịp thời định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng sự việc, để mọi người chủ động tham gia đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc của thế lực phản động. Phải dự báo được những vấn đề mới nảy sinh, sử lý kịp thời những quan điểm sai trái, phải chuẩn bị chu đáo, bác bỏ có tính thuyết phục cao trong đấu tranh, phê phán.
Sáu là, Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng toàn xã hội tham gia đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Coi nhiệm vụ đấu tranh là trách nhiệm của của cả hệ thống chính trị và của mỗi người làm thất bại chiến lược :diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ST, H, tr. 95
[2] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb, CTQG, H, 2005, tr404
[3] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb, CTQG, H, 2005, tr520
[4] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb, CTQG, H, 2005, tr521
[5] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb, CTQG, H, 2005, 635
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb, CTQG, H, 2006, tr. 284
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb, CTQG, H, 2006, tr. 257

KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG HÀNH, TRÚ QUÂN DIỄN TẬP VÒNG TỔNG HỢP CÓ BẮN ĐẠN THẬT Ở SƯ ĐOÀN 10 – QUÂN ĐOÀN 3

KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG HÀNH, TRÚ QUÂN DIỄN TẬP VÒNG TỔNG HỢP CÓ BẮN ĐẠN THẬT Ở
SƯ ĐOÀN 10 – QUÂN ĐOÀN 3

                                          Đại tá, TS Nguyễn Đức ngọc
                            CNK Lịch sử Đảng
Hành, trú quân diễn tập vòng tổng hợp có bắn đạn thật là hình thức huấn luyện tổng hợp ở Sư Đoàn 10, thường được tiến hành vào giai đoạn kết thúc nhiệm vụ huấn luyện hàng năm, nhằm thực hành huấn luyện, rèn luyện toàn diện cán bộ, chiến sĩ và kiểm tra, đánh giá chất lượng mọi mặt của công tác huấn luyện công tác đảng, công tác chính trị và công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật của Sư đoàn. Sư đoàn 10 tổ chức hành huấn luyện dã ngoại dài ngày trong điều kiện bộ đội mang vác nặng, cơ động xa, qua nhiều địa hình rừng núi cao, kết hợp giữa hành quân với trú quân trên nhiều địa bàn dân cư của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên. Cường độ huấn luyện cao, nội dung huấn luyện toàn diện trong điều kiện khí hậu thời tiết khắc nhiệt. Vì vậy, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của Sư đoàn phải tiến hành toàn diện, đồng bộ, chặt chẽ, bài bản trong tất cả các khâu, các bước trước, trong và sau khi kết thúc nhiệm vụ diễn tập vòng tổng hợp. Trong từng giai đoạn cụ thể, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của Sư đoàn đã bám sát nhiệm vụ, bám sát yêu cầu của từng hình thức chiến thuật, Sư đoàn tiến hành tốt công tác tư tưởng, công tác tổ chức, thường xuyên giáo dục, quán triệt, động viên, cổ vũ bộ đội nỗ lực, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Từ thực tiễn hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong hành, trú quân diễn tập tổng hợp có bắn đạn thật của Sư đoàn 10, có thể rút ra mộ số kinh nghiệm cơ bản sau đây.
Một là, Sư đoàn luôn nêu cao vai trò của cấp ủy, chi bộ, kịp thời ra nghị quyết chuyên đề, xác định đúng chủ trương, biện pháp lãnh đạo nhiệm vụ diễn tập phù hợp với tình hình thực tiễn, nhiệm vụ của đơn vị là vấn đề then chốt quyết định mọi thành công trong diễn tập.
Nghị quyết chuyên đề lãnh đạo nhiệm vụ diễn tập vòng tổng hợp của các cấp ủy giữ vai trò hết sức quan trọng, định hướng, chỉ đạo toàn diện mọi hành động của đơn vị cả trước, trong và sau diễn tập. Nghị quyết chuyên đề của các cấp ủy phải bảo đảm tính chính xác, sát hợp, phải bám sát nhiệm vụ, nội dung, kế hoạch, mục tiêu yêu cầu diễn tập. Bám sát chủ trương, phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo, mệnh lệnh, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên. Đồng thời, căn cư vào tình hình, nhiệm vụ của đơn vị để cụ thể hóa, lựa chọn những chủ trương, biện pháp lãnh đạo cụ thể, bảo đảm tính toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm, khâu then chốt, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, khắc phục những mặt yếu, khâu yếu. Trên cơ sở chủ trương, biện pháp lãnh đạo đã xác định, cấp ủy các cấp cần có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên phụ trách từng mặt công tác cả trong chuẩn bị, thực hành và kết thúc đợt diễn tập. Quá trình thực hành diễn tập phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh bổ sung, giúp đỡ cấp dưới khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hai là, coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị và cơ quan làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu diễn tập là cơ sở, tiền đề vững chắc bảo đảm cho đơn vị hoàn thành xuất săc mọi nhiệm vụ trong diễn tập.
Diễn tập vòng tổng hợp đòi hỏi phải triển khai thực hiện nhiều khoa mục, đề mục huấn luyện với khối lượng công việc rất lớn, trong thời gian có hạn, yêu cao đòi hỏi cao. Vì vậy, các cấp phải nhanh chóng xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các văn kiện; văn kiện bảo đảm cho lãnh đạo, chỉ đạo diễn tập; văm kiện đạo diễn và tập bài giảng quân sự; văn kiện bảo đảo và tập bài giảng công tác đảng, công tác chính trị; kế hoạch công tác đảng, công tác chính trị; kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho diễn tập.
Trong diễn tập, quá trình chỉ đạo xây dựng các văn kiện, kế hoạch diễn tập, tập bài chính là quá trình tiếp tục huấn luyện, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực chỉ huy, lãnh đạo và kỹ năng làm công tác đảng, công tác chính trị cho cán bộ các cấp. Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần nhận thức đúng đắn vấn đề này, phát huy tính tích cực, chủ động xây dựng hoàn chỉnh văn kiện, kế hoạch cấp mình, đồng thời nêu cao trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ cấp đưới hoàn thành các văn kiện và kế hoạch. Tránh tình trạng chậy đua thành tích, cấp trên bao sân làm thay cho cấp dưới hoặc phó mặc không kiểm tra đôn đốc để kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót lệch lạc trong văn kiện, kế hoạch cấp dưới; cấp dưới dựa dẫm, ỉ lại, trông chờ sự bao sân của cấp trên.
Đối với hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cần tập trung vào những nội dung trọng tâm như: hội nghị đảng ủy, chi bộ thông qua kế hoạch chiến đấu của người chỉ huy và ra nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ chiến đấu; rèn luyện động tác, tác phong của chỉ huy trong tổ chức chuẩn bị chiến đấu và thực hành chỉ huy chuẩn bị chiến đấu; luyện tập triển khai các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong hành quân, trú quân, tập bài chiến thuật và thực hành bắn đạn thật.
Ba là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và chỉ huy các cấp làm tốt việc giáo dục nhiệm vụ, phổ biến quán triệt mệnh lệnh, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, xây dựng động cơ, ý chí quyết tâm, tinh thần trách nhiệm cho bộ đội trong suốt quá trình diễn tập là vấn đề cơ bản, thiết thực bảo đảm cho đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Giai đoạn chuẩn bị diễn tập, căn cứ vào mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch công tác đảng, công tác chính trị và hướng dẫn của cấp trên, xuất phát từ thực tiễn tình hình nhiệm vụ của đơn vị, các cấp cần cụ thể hóa và phổ biến, quán triệt sâu sắc đến mọi cán bộ, chiến sĩ làm cho bội đội nắm chắc nhiệm vụ, các quy chế, quy định cụ thể trong diễn tập. Nội dung giáo dục, quán triệt toàn diện, song cần tập trung trọng điểm vào quán triệt mệnh lệnh, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, nghị quyết chuyên đề của cấp ủy, các quy chế, quy định về bảo đảm an toàn cho người và vũ khí trang bị, quy định giữ bí mật, đóng quân canh phòng dã ngoại, giáo dục kỷ luật trên đường hành quân, kỷ luật khi quan hện với nhân dân và kỷ luật trong tập bài chiến thuật, trong bắn đạn thật. Trong thực hành diễn tập, đòi hỏi cán bộ chính trị, cán bộ chỉ huy và đội ngũ đảng viên phải bám sát bộ đội, kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng, động cơ quyết tâm và ý thức chấp hành kỷ luật để động viên, nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ củng cố quyết tâm, giữ nghiêm kỷ luật trong đơn vị.
Để làm tốt việc giáo dục, quán triệt nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm cho bộ đội, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng trong đơn vị tham gia, song phải đề cao vai trò nồng cốt của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và chỉ huy các cấp, tổ chức tốt hội nghị quân chính, hội nghị hội đồng quân nhân và phát huy vai trò tổ chức đoàn thanh niên trong giáo dục nhiệm vụ, xây dựng động cơ quyết tâm và ý thức trách nhiệm cho bộ đội.
Bốn là, làm tốt công tác tiền trạm, chủ động liên hệ, hiệp đồng với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương ở những địa bàn đơn vị hành quân, trú quân và tập bài là vấn đề cơ bản để giữ vững an ninh trật tự khu vực đóng quân, bảo đảm an toàn cho đơn vị và tăng cường củng cố quan hệ đoàn kết quân dân.
Để làm tốt công tác tiền trạm trong giai đoạn chuẩn bị diễn tập, cần chỉ đạo làm tốt việc tổ chức cho cán bộ các cấp đi trinh sát thực địa, nắm chắc tình hình mọi mặt trên từng cung chặng hành, trú quân. Chủ động liên hệ, hiệp đồng với địa phương để nắm chắc tình hình khu vực trú quân, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị trú quân và tập bài theo các tình huống chiến thuật; phối hợp cùng địa phương  duy trì an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực trú quân, chủ động ngăn chặn mọi tệ nạn xã hội có thể xâm nhập vào đơn vị; quá trình trú quân căn cứ vào điều kiện cụ thể, cho phép có thể liên hệ với địa phương tổ chức cho bộ đội tranh thủ làm công tác dân vận giúp đỡ các đối tượng chính sách, gia đình khó khăn để tăng cường quan hệ đoàn kết quân dân và thực hiện tốt chức năng đội quân công tác.
Phát huy vai trò, chức năng của ban dân vận, bảo vệ và nêu cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp, thường xuyên liên hệ chặt chẽ với địa phương để nắm chắc tình hình mọi mặt trong suốt quá trình hành, trú quân và tập bài chiến thuật, kịp thời nắm và giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa đơn vị với nhân dân địa phương; phát hiện có vụ việc nảy sinh, cán bộ các cấp cần gặp gỡ nhân dân và đại biểu chính quyền địa phương để giải quyết thỏa đáng, tránh chủ quan, đơn giản.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạolamf tốt công tác sơ tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương gương điển hình tiên tiến trên từng chạng hành, trú quân và toàn bộ đợt diễn tập là động lực tinh thần thúc đẩy bộ đội vươn lên khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ.

Sau khi kết thúc thực thành diễn tập phải lãnh đạo, chỉ đạo các cấp làm tốt công tác tổng kết, rút kinh nghiệm toàn bộ quá trình diễn tập, đánh giá đúng mạnh, yếu, chỉ rõ nguyên nhân, trách nhiệm của từng cấp, tránh chung chung, qua loa đại khái hoặc chạy theo thành tích, giấu giếm khuyết điểm. Đồng thời, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn để làm bài học cho những năm tiếp theo. Thông qua tổng kết, lựa chọn những cá nhân, tập thể hoàn thành xuất săc  nhiệm vụ trong đợt diễn tập để khen thưởng, động viên kịp thời.

DANG CỌNG SAN VIET NAM SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

DANG CỌNG SAN VIET NAM
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, khi phong trào cứu nước do các si phu yêu nước lãnh đạo rơi vào bế tắc rồi thất bại, phong trào cứu nước do đại diện của tư sane dân tộc và tiểu tư sản lãnh đạo bị phân hóa và suy yếu thì cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng  đường lối. Trước bối cảnh lịch sử đó, ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và từ đó đến nay luôn độc tôn lãnh đạo cách mạng nước ta. Trong ba phần tư thế kỷ qua, Đảng ta đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thăng hai đế quốc ta là Pháp và Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa hội.
Sở dĩ Đảng ta đã thực hiện được nhiệm vụ lịch sử đó đối với giai cấp và dân tộc trước hết là do Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đề ra được đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – lênin làm nền tảng tư tưởng, trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận ấy đã phân tích sâu săc  xã hội Việt Nam đương thời, cũng như nhận rõ tính chất của thời đại để làm cơ sở cho việc xác định đường lối của cách mạng nước ta.
Sự phân tích thấu đáo của Đảng đã đi đến kết luận: nến như ở các nước tư bản phát triển, mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, thì ở Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiên, mâu thuẫn chủ yếu lại là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Từ sự phân tích đó, Đảng ta đã thấy rõ mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc và cho rằng: một khi đất nước bị chủ nghĩa thực dân thống trị thì không có lợi ích giai cấp nào nằm ngoài lợi ích dân tộc, và bất cứ một giai cấp nào muốn trở thành giai cấp lãnh đạo trước hết phải tự mình trở thành dân tộc.
Nếu như trong chủ nghĩa Mác, vấn đề dân tộc là vấn đề thứ yếu so với vấn đề giai câp thì một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, vấn đề dân tộc lại có một vị trí khác.
Đảng ta đã xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy thực tiễn xã hội Việt nam làm cơ sở cho việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin khi xác định đường lối cách mạng nước ta. Cùng với việc nắm vững ngon cờ dân tộc, đặt nhiệm vụ dân tộc trở thành nhiệm vụ trước tiên và chủ yếu cho cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta cũng đã nhận thức đúng đắn tính chất của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga, nên đã khẳng định chân lý của thời đại là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ quan điểm đó, Đảng ta đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng thế giới và định ra đường lối của cách mạng Việt Nam là: tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặt con đường tư bản chủ nghĩa ra ngoài sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta đã sống dưới ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đã nếm trải mọi cay đắng, tủi nhục của thân phận người dân mất nước, đã nhận rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mà quan hệ người bóc lột người đã lên đỉnh điểm và nhất định sẽ diệt vong. Thấu suốt lòng dân, Đảng ta đã lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội làm con đường phát triển của đất nước, vì đó là một chế độ xã hội tốt đẹp nhất, nhân đạo nhất, bảo đảm cho nền độc lập thực sự của đất nước, đưa lại cho nhân dân lao động  quyền làm chủ xã hội, làm chủ đất nước và ấm no, tư do, hạnh phúc. Chính vì vậy, ngay từ khi ra đời, ý Đảng lòng dân đã hòa quyện làm một.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân nước ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh, bởi kẻ thù của chúng ta là những tên đế quốc độc ác và tàn bạo, có tiềm lực kinh tế, quân sự đồ sộ, có căn cứ quân sự khắp nơi trên thế giới, có khoa học kỹ thuật hiện đại, có đội quân xâm lược nhà nghề được trang bị đến tận răng và được huấn luyện cẩn thận cho những cuộc viễn chinh xâm lược. Nhưng nhân dân ta đã thắng; thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã thua. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta đã hoàn thành trong cả nước.
Thắng lợi của nhân dân ta trước hết bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng v à chiến tranh cách mạng của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời chắt lọc kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Đảng đã nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo và đã giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tăc của cách mạng và chiến tranh cách mạng ở nước ta. Đó là thực hiện sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với cách mạng và chiến tranh cách mạng; xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân; xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nông làm nền tản và không ngừng mở rộng theo yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng; xây dựng mặt trận và thực hiện liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương, mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Việt Nam; triệt để lợi dụng mâu thuẫn để phân hóa kẻ thù trong quá trình đấu tranh cách mạng. Riêng trong lĩnh vực đấu tranh quân sự, trên cơ sở lực lượng cách mạng là toàn dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng, Đảng đã chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, tiến hành chiến tranh nhân dân mà hạt nhân là phát huy sức mạnh tổng hợp của dân để thực hiện chiến lược tiến công; biết thắng địch từng bước, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm thời cơ để giành thắng lợi.
Việc thực hiện các nguyên tắc trên đã giups nhân dân ta phát huy sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong cuộc chiến tranh chống xâm lược, đồng thời phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua muôn vàn thử thách ác liệt, hy sinh để chiến thắng kẻ thù xâm lược, viết nên những trang sử oai hùng nhất của dân tộc và góp phần không nhỏ vào sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới trong thế kỷ XX. Đó còn là những kinh nghiệm vô giá cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc  ngày nay. Đồng thời là những đóng góp về lý luận và thực tiễn vào kho tàng lý luận cách mạng và chiến tranh thế giới.
Sau khi hoàn thành cạch mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một việc làm mới mẻ chưa có tiền lệ trong lịch sử, một sự nghiệp không những đòi hỏi phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững bản chất của chủ nghĩa xã hội khoa học và những nguyên lý cơ bản về xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, mà còn phải ra sức tìm tòi, sáng tạo, đồng thời kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện cơ hội, giáo điều, máy móc, hữu khuynh, chủ quan, duy ý chí… Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nhiều nơi, nhất là những kinh nghiệm thực tiễn ở nước ta, đã đi đến một quan niệm về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng……Đảng ta không định dạng chủ nghĩa xã hội theo mô hình cứng nhắc, được thiết kế sẵn hoặc sao chép một mô hình nào đó, mà tập trung xác định những giá trị tạo thành bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, phân biệt nó với xã hội tư bản chủ nghĩa, và đó chính là những mục tiêu mà chúng ta cần phải phấn đấu để xây dựng. Lẽ dĩ nhiên, các giá trị trên đây chỉ được thề hiện đầy đủ khi xã hội mới đã được xây dựng xong, nhưng sẽ được thể hiện từng phần, từng bước trong quá trình xây dựng đất nước.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, dựa vào sự phân tích khoa học những sai lầm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội của các đảng anh em và của bản thân, Đảng ta đã xác định những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm đạt tới mục tiêu……    
Trong thực tiễn cách mạnh nước ta, những phương hướng cơ bản trên đây mà Đảng ta xác định, và đang được tổ chức thực hiện và đưa lại những thành quả to lớn: tình hình chính trị được ổn định; an ninh quốc phòng được giữ vững; kinh tế, văn hóa, xã hội có bước phát triển tốt, tạo điều kiện cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn cũng cho thấy, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay đang đòi hỏi cao bản chất cách mạng và khoa học của Đảng. Không có ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá, lập trường kiên định, lòng trung thành vô hạn với lý tưởng, với sự nghiệp của nhân dân thì không thể vượt qua khó khăn, thử thách trên co đường phấn đấu để đi đên mục tiêu cách mạng. Nhưng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa còn đòi hỏi Đảng ta phải có tầm cao trí tuệ, thực sự khoa học mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tụt hậu, không để công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đi chệch hướng, không để tệ tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác hoành hành, không để cho các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.
Tám mươi ba năm lịch sử Đảng là tám mươi ba năm Đảng ta không ngừng trau rồi bản lĩnh cách mạng và trí tuệ khoa học. Đó là sự kiên định con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh, quyết tâm sắt đá đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, không lung lay trước những diễn biến phức tạp trên thế giới, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nhiều nơi. Đó là sự tài tình trong việc đề ra mục tiêu đúng đắn cho từng chặng đường, tìm ra những biện pháp thích hợp để đi tới mục tiêu, luôn luôn phát huy sưcs mạnh tổng hợp, đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực của mọi thành viên trong xã hội, phát huy mọi nguồn lực của đất nước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chính sách đối ngoại đúng đắn, khôn khéo lợi dụng thời cơ mà thời đại đưa đến để khai thác nguồn lực bên ngoài phục vụ đất nước, đồng thời nắm chắc bản chất của kẻ thù, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cũng như mọi kiểu chiến tranh mà chúng có thể gây ra.
Tất cả những vấn đề nói trên không chỉ đòi hỏi ý chí và quyết tâm, mà còn đòi hỏi tư duy khoa học của Đảng ta. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thành công nếu Đảng ta thực sự là trí tuệ, là đạo đức, là văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Do vậy, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), xây dựng Đảng thực sự trí tuệ, bản lĩnh, có tâm, đức trong sáng, hy sinh trước, cống hiến trước, hưởng thụ sau, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đây không phải việc làm dễ dàng, nhưng với truyền thống cách mạng và kinh nghiệm đã có, chắc chắn DDảng ta sẽ thực hiện tốt, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa tới thành công.
V� �cЙkx�k�a Trường Đại học Chính trị hiện nay. Để hoàn thành nhiệm vụ này, đòi hỏi các cấp ủy, người chỉ huy, đội ngũ giảng viên, nhà khoa học phải thường xuyên nâng cao trình độ trí tuệ, vững vàng về chính trị tư tưởng, có lối sống trong sáng, lành mạnh; tham gia tích cực trên mặt trận đấu tranh tư tưởng – lý luận, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, gữi vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chăc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



ĐẤU TRANH KỊP THỜI, HIỆU QUẢ VỚI THÔNG TIN SAI LỆCH, CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, PHẢN ĐỘNG LÀ NHIỆM VỤ
QUAN TRỌNG CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
                    Đại tá, TS nguyễn Đức Ngọc
      CNK Lịch sử Đảng
Trường Đại học Chính trị là một trung tâm lớn, có uy tín trong giáo dục – đào tạo cán bộ chính trị và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quân sự trong quân đội. trên 37 năm xây dựng và trưởng thành, giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học đã góp phần to lớn, tạo nên vị thế, uy tín của Nhà trường. Trong những năm gần đây, Đảng ủy, Ban giám hiệu Nhà trường chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên lĩnh vực quân sự,  quốc phòng, giải đáp những vấn đề bức xúc đang đặt ra trong bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị…. Đặc biệt, trên lĩnh vực đấu tranh tư tương – lý luận, hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường đã tích cực, chủ động triển khai đấu tranh trên diện rộng từ việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đến đấu tranh chống các quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”... để chống phá cách mạng Việt Nam, cũng như các quan điểm sai trái, cơ hội, thực dụng về chính trị, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Các cuộc hội thảo, hàng chục bài báo đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao nhận thức chính trị, cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, tăng cường và củng cố trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng – lý luận để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng… đang diễn ra hết sức quyết liệt, phức tạp do những nội dung, hình thức mới tinh vi, thâm độc và xảo quyệt của các thế lực thù địch. Lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, lợi dụng những thành tựu khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, các thế lực thù địch quốc tế và trong nước tiếp tục vừa đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, vừa triệt để lợi dụng những sơ hở, tiêu cực trong xã hội để chống phá ta. Trong đó, có cả những phần tử cơ hội về chính trị, bất mãn với chế độ, ra sức công kích Đảng ta và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mỗi ngày có hàng chục tài liệu gồm các bài viết, các ấn phẩm được phát tán khắp nơi, đưa lên mạng Internet, in trên sách báo, băng đia từ nước ngoài gửi về để chống phá cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản của các ấn phẩm là tung tin thất thiệt, xuyên tạc sự thật, bôi nhọ cán bộ, đảng viên, gây mâu thuẫn nội bộ, vô hiệu hóa các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước… nhằm làm xói mòn lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó tiêu điểm của các thế lực thù địch hiện nay là tập trung chống phá Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đối lập Đảng với Nhà nước, Trung ương với các địa phương, chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân, vấn đề tranh chấp biển đảo để kích động…. Vì vậy, chủ động đấu tranh kịp thời, có hiệu quả với các thông tin sai lệch, các quan điểm sai trai, phản động của các thế lực thù địch là yêu cầu và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các nhà khoa học. Trong đó, Trường Đại học Chính trị có một vị trí rất quan trọng.
Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã chủ động thành lập Ban đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” do đồng chí Chính ủy Nhà trường làm trưởng Ban trực tiếp chỉ đạo các lực lượng trong Nhà trường tham gia viết bài, tin mạng website đấu tranh với những thông tin sai lệch, các quan điểm sai trái, phản động.
Tuy nhiên, để thực hiện đấu tranh kịp thời, có hiệu quả, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã quán triệt làm cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên, chiến sĩ trong Nhà trường nắm vững đối tượng, âm mưu, thủ đoạn và phương thức hoạt động của các thế lực thù địch. Ngoài lực lượng phản động quốc tế và các tổ chức phản động người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài, các thế lực thù địch ở nước ngoài đặc biệt chú ý móc nối với những kẻ cơ hội về chính trị, bất mãn với chế độ ở trong nước, tìm “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng, hình thành phe phái chống phá cách mạng Việt Nam, và nguy hiểm hơn, chúng còn tìm mọi cách làm cho xã hội ta “tự diễn biến”. Được sự tiếp tay từ bên ngoài, các phần tử phản động trong nước đã triển khai các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước quyết liệt hơn, vừa ngấm ngầm, vừa công khai trắng trợn dưới danh nghĩa “góp ý kiến”, “hồi ký”, “đối thoại”, “lời kêu gọi”. Thậm chí chúng còn sử dụng cả những thủ đoạn “rỉ tai”, tung tin thất thiệt, bịa đặt, nhằm vu cáo, bôi nhọ cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, công an, kích động mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ Đảng, chĩa rẽ dân tộc, tôn giáo. Chúng luôn tìm mọi cách liên kết các lực lượng, liên tục mở các “chiến dịch” chống phá Đảng, Nhà nước.
Trong năm 2012 – 2013, mục tiêu trực tiếp của các thế lực thù địch là tập trung chống phá toàn diện các nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trọng điểm là Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) về kết quả kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, chúng lợi dụng đóng góp vào sửa đổi Hiến pháp năm 1992, để chống ta quyết liệt nhằm xóa bỏ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam (đã được quy định Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt nam)… Dưới danh nghĩa các cán bộ lão thành, cựu chiến binh, các nhà khoa học có tên tuổi thông qua cái gọi là “thư góp ý”, “những lời tâm huyết với Đảng”, “trăn trở về vận mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “đóng góp vào nghị quyết, hiến pháp sửa đổi”… các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc thành tưu hơn 20 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; tập trung khoét sâu, thổi phồng một số hạn chế, tiêu cực trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Từ các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị khóa XI của Đảng, các quan điểm, nội dung có liên quan đến chủ nghĩa Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến con đường mục tiêu về chủ nghĩa xã hội đều bị kẻ thù phản ứng quyết liệt, cho là bảo thủ, giáo điều, không có gì mới. Đồng thời, chúng lớn tiếng đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí không giới hạn…. Những nội dung trên đã được chúng phát tán đi khắp nơi, qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt, chúng tận dung tối đa mạng Internet, báo điện tử, các trang mạng website… để tuyển tải các quan điểm sai trái, thù địch đến các tầng lớp nhân dân; đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, các tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh, đồng bào dân tộc thiểu số… làm cho nhân dân nghi ngờ, giảm sút niềm tin vào các quan điểm, đường lối, chủ trương, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội XI xác định đến năm 2020 và những năm tiếp theo…
Để tham gia đấu tranh kịp thời, có hiệu quả với các thông tin sai lệch, các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Đảng ủy, Ban Giảm hiệu Trường Đại học Chính trị chỉ đạo tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, toàn thể cán bộ, đảng viên, giảng viên và các nhà khoa học của Trường Đại học Chính trị phải tiếp tục nghiên cứu sâu, hiểu thực chất các quan điểm gốc của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh là một học thuyết khoa học và cách mạng phản ánh đúng đắn các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, về cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị bóc lột, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đó là những giá trị bền vững, có sức sống trường tồn trong thời đại ngày nay. Chính vì vậy, khi nhân loại bước sang thế kỷ 21, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là học thuyết khoa học, cách mạng duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ của lịch sử nhân loại, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của nhân dân lao động, không một học thuyết nào có thể thay thế được. Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – lênin phù hợp điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như hơn 20 năm đổi mới, đã chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênnin và sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.
Hai là, phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận diện, nắm vững âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không mơ hồ, chủ quan. Cần đề cao trách nhiệm, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng của cán bộ, đảng viên. Trong đó, trước hết là Ban chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” và lãnh đạo, chỉ huy các cấp, đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học phải chủ động tiến công trực tiếp, kịp thời vào các luận điểm xuyên tạc, các quan điểm sai trái, phản động, nhằm vô hiệu hóa hoặc giảm thiểu tối đa tác hại của nó đến các tầng lớp nhân dân. Đồng thời cần định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận ngay trong đơn vị cũng như trong toàn xã hội. Thái độ, hành động phải cương quyết, thẳng thắn; nội dung phải chặt chẽ; phương pháp phải phù hợp, linh hoạt, có sức thuyết phục cao, cảm hóa, có lý, có tình…. Với lợi thế của một Trường Đại học có nhiệm vụ giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, các nội dung tham gia đấu tranh có thể lồng ghép trong các bài giảng, qua biên soạn hệ thống giáo trình, tài liệu, qua các cuộc hội thảo khoa học, các lần tọa đàm, các công trình khoa học… để thực hiện bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng – lý luận của Đảng.
Ba là, Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, Ban chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” của Nhà trường, quản lý chặt chẽ theo những quy định, quy chế thống nhất trong đấu tranh tư tưởng – lý luận. Đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhưng rất quan trọng. Cuộc đấu tranh này, có quan hệ đến sinh mệnh chính trị của Đảng, đến sự tồn vong của chế độ, thịnh suy của đất nước. Mặt khác, đó cũng là sự đương đầu với các thế lực thù địch, các lực lượng chống đối, cơ hội, bất mãn… với các quan điểm tư tưởng sai trái. Do đó, nhất thiết phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng và sự điều hành, quản lý của Nhà trường, Ban chống “diễn biến hòa bình”, thực hiện theo kế hoạch, từng tháng, từng quý, Nhà trường, Ban chống “diễn biến hòa bình” phân công cho từng bộ phận, từng cá nhân, theo thế mạnh và chuyên môn nghiệp vụ từng lĩnh vực viết bài đấu tranh kịp thời với những thông tín sai lệch, các quan điểm sai trái, phản động. Đồng thời, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, chỉ đạo kịp thời, hiệu quả hơn.
Tham gia đấu tranh kịp thời, có hiệu quả với những thông tin sai lệch, các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ quan trọng, phức tạp và nhạy cảm. Đó là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức của Trường Đại học Chính trị hiện nay. Để hoàn thành nhiệm vụ này, đòi hỏi các cấp ủy, người chỉ huy, đội ngũ giảng viên, nhà khoa học phải thường xuyên nâng cao trình độ trí tuệ, vững vàng về chính trị tư tưởng, có lối sống trong sáng, lành mạnh; tham gia tích cực trên mặt trận đấu tranh tư tưởng – lý luận, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, gữi vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chăc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.