ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG VÀ BÀI HỌC CHỦ ĐỘNG
BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY
Đại
tá, TS Nguyễn Đức Ngọc
Chủ
nhiệm khoa Lịch sử Đảng
Cuộc tiến công chiến lược nửa đầu năm 1972 trên chiến trường miền Nam
thắng lớn đã làm chuyển biến cục diện chiến tranh, góp phần quyết định buộc đế
quốc Mỹ ký Hiệp định Pari, nhưng Mỹ đã tráo trở, lật lọng. Sở dĩ có tình hình
đó, là do bản chất ngoan cố, hiếu chiến của họ và do tình hính nước Mỹ. Nich
xơn tuy đồng ý với dự thảo Hiệp định, nhưng không muốn ký ngay, bởi có một số điều
khoản bất lợi cho Mỹ. Mỹ toan tính: nếu chần chừ kéo dài, đánh thêm một đòn
quân sự nữa sẽ ép Viêt
Nam phải nhượng bộ nhiều hơn và có thời gian viện trợ cấp tốc vực ngụy quân,
ngụy quyền mạnh lên khi Mỹ rút quân. Đưa ra ý tưởng này, Nich xơn cũng đã cân
nhắc không lo
phản ứng của Liên xô, Trung quốc, vì trước đó Nich xơn đã đến thăm[1],
tìm cách cải thiện quan hệ với những nước này và cô lập Việt Nam. Mặt khác, nếu
ký trước thềm bầu cử Tổng thống có thể làm cho các cử tri “bảo thủ” Mỹ không
bằng lòng, do đó giảm khẳ năng thắng cử của Nich xơn. Thực hiện mưu đồ xảo
quyệt đó, Kítxinhgiơ đã không đến Hà Nội như dự kiến để ký tắt Hiệp định[2]
và sau thắng cử (7- 11- 1972) Nich xơn quyết định mở cuộc tập kích B52 vào Hà Nội
- Hải Phòng mang tên Lainơbêchcơ II. Mục
đích cuộc tập kích nhằm phá hoại nặng tiềm lực kinh tế - quốc phòng của miền
Bắc, đánh phá có tính hủy diệt gây khủng khiếp trong nhân dân, tạo lên hậu quả
tàn phá lớn khiến Việt Nam phải khắc phục lâu dài, nhằm buộc ta trở lại bàn
thương lượng ở thế yếu và hạ thấp một số điều khoản trong Hiệp định có lợi cho
Mỹ.
Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng của
ta chống lại Cuộc tập kích chiến lược B52 của đế quốc Mỹ từ ngày 18 đến ngày 29
- 12-1972. Mười hai ngày đêm ấy, quân và dân ta phải đánh trả hơn 1 nghìn lần
chiếc máy bay các loại, trong đó 740 lần chiếc máy bay B52, chúng đánh phá hủy
diệt rất dã man các khu dân cư như Khâm Thiên, Bệnh viên Bạch Mai…. Hà Nội, Mặc
dầu vậy, ta đã thắng lớn, bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 máy bay B52, hàng
trăm giặc lái bị chết và bắt sống[3].
Thiệt hại lớn đó làm cho đế quốc Mỹ không
chịu nổi, buộc phải kết thúc Cuộc tập kích và ngừng nén bom miền Bắc từ vĩ tuyến
20 trở ra. Chiến dịch đã đạt tới mức tiêu diệt cao nhất, oanh liệt nhất, trong
cuộc chiến đấu bảo vệ miên Bắc. Đây cũng là chiến dịch phòng không đầu tiên
trên thế giới tiêu diệt nhiều máy bay chiến lược B52 của đế quốc Mỹ, giáng cho
không quân Mỹ đòn thất bại nặng nề trong lịch sử xâm lược của nó. Chiến thắng
đã nhấn chìm ý đồ đàm phán trên thế mạnh của Nich xơn, buộc phải đề nghị gặp
đại biểu ta bàn ký Hiệp định. Chiến thắng đã góp phần giành thắng lợi quyết
định: quân Mỹ rút khỏi miền Nam, thế và lực cách mạng hơn hẳn ngụy quân, ngụy
quyền Sài Gòn, tạo tiền đề tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Với ý nghĩa và
tầm vóc đó, dư luận thế giới gọi là trận “Điên
Biên Phủ trên không”.
Dẫn đến thắng lợi trận “Điên Biên Phủ trên
không” do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật xuyên suốt là Đảng và nhân dân ta
chủ động, sáng tạo trong phòng tránh đánh trả chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, bảo vệ miền Bắc, đặc biệt thủ đô Hà Nội.
Với Đảng
ta, Mỹ đánh phá hủy diệt Hà Nội không phải là điều bất ngờ. Tháng 7 - 1966, trước tình hình chiến tranh phá hoại ngày
càng mở rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
không có gì quý hơn độc lập tự do”[4].
Như vậy, Người đã biểu thị quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân đồng thời dự báo
Hà Nội, Hải Phòng có thể là một trọng điểm tàn phá và là điều kiện để đế quốc
Mỹ mặc cả với ta ở nấc thang chiến tranh này. Đến cuối năm 1967, Người nói rõ
hơn “Sớm muộn đế quốc Mỹ sẽ đưa B52 đánh ra Hà Nội trước khi chúng chịu thua
trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam”[5]
Theo chỉ dẫn đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại
miền Bắc, Đảng ta luôn luôn bám sát tình hình thực tiễn, chuẩn bị đối phó với
bước leo thang cao nhất, Mỹ có thể đánh phá hủy diệt Hà Nội - Hải Phòng. Vì thế,
ngay sau khi Nich xơn ra lệnh ngừng ném bom và bắn phá bắc vĩ tuyến 20 trở ra
(22-10-1972) Quân ủy Trung ương nhận định “Địch sẽ tập trung đánh phá ác liệt
từ Thanh Hóa trở vào, đồng thời có khả năng chúng sẽ đánh phá lại miền Bắc. Do
đó, trong khi tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến đấu bảo vệ giao thông ở phía Nam ta
phải nâng cao cánh giác, tích cực chuẩn bị luôn luôn sẵn sàng chiến đấu ở phía
Bắc để đối phó có hiệu quả khi địch đánh trở lại”[6]
. trước tình hình dây dưa, lật lọng không ký Hiệp định Pari ngày 27-11-1972. Quân
ủy Trung ương nhận định rõ hơn “Có khả năng địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền
Bắc với mức độ ác liệt hơn kể cả dùng B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội - Hải Phòng”[7]
Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị phải sẵn sàng chiến đấu cao. dự báo và nhận định nêu
trên đã biến thành chủ trương và hành động cụ thể của Đảng và quân dân ta chuẩn
bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong Chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải
Phòng.
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng quân và dân ta đã nỗ lực chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu
giánh trả đích đáng trận tập kích bằng không quân hiện đại của đế quốc Mỹ.
Vấn đề
bảo vệ dân được đặt lên hàng đầu. Các Hội
đồng phòng không nhân dân ở các thành phố, thị xã, khu công nghiệp khẩn trương
sơ tán dân. Trong khu phòng thủ trọng điểm, Hà Nội sơ tán 54 vạn dân nội thành
trong tổng số 64 vạn dân, Hải Phòng sơ tán 21 vạn dân trong tổng số 27 vạn dân.
Số còn lại phần lớn là những người trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
công tác. Về chuẩn bị lực lượng ta đã huy động 50% đơn vị cao xạ, 60% đơn vị
tên lửa, 100% đơn vị không quân chiến đấu cho chiến dịch. các đơn vị phòng không
của quân khu, các tỉnh lân cận nhận được lệnh phối hợp chiến đấu. Ngoài ra, lực
lượng đông đảo các đơn vị, bắn máy bay tầm thấp của quân dân tự vệ cũng nằm
trong đội hình chiến dịch. Để nâng cao chất lượng chiến đấu, các trận địa phòng
không và hầm hào phòng, tránh cũng được củng cố. Các lực lượng vũ trang, đặc
biệt phòng không không quân đều được tập huấn nhằm nâng cao trình độ tác chiến
lên ngàng tầm với đòi hỏi chống B52 của Địch. Theo đó, các tài liệu về máy bay
B52 được phổ biến, nan giải và khó khăn nhất là chống nhiễu do đối phương gây
ra cũng được giải quyết.
Cả miền
Bắc xung trận, đặc biệt Hà Nội - Hải Phòng
nơi diễn ra chiến dịch khí thế dâng lên rất cao. Bộ Chính trị và cơ quan đầu
não chỉ huy giữ nguyên vị trí để chỉ đạo kịp thời, sát diễn biến của tình hình,
đồng thời động viên củng cố ý chí chiến đấu và niềm tin của nhân dân. Do ta bố
trí phòng không nhiếu tầng, nhiều hướng, nhiều lực lượng nên các đơn vị đều lập
công. Tên lửa, pháo phòng không, máy bay MIC, diệt B52 trong đó tên lửa bắn rơi
30 chiếc. Các trận địa pháo của dân quân tự vệ băn rơi 11 chiếc tầm thấp, bắt
sống nhiều giặc lái[8].
Đăc biệt bộ đội Ra Đa chống được nhiễu, phát hiện sớm máy bay địch từ 25 đến 30
phút, giữ trọn lời thề “không để Tổ quốc bị bất ngờ” Các lực lượng phụ vụ chiến
đấu tiếp lương, tải đạn, khắc vục hậu quả nhanh, gọn. Do làm tốt công tác phòng
không, sơ tán, nên thiệt hại về người và của ở mức thấp nhất. Rõ ràng “Điên
Biên Phủ trên không” là Chiến dịch phòng không nhân dân đánh bại chiến tranh
công nghệ cao của đế quốc Mỹ. Chiến dịch đã góp phần đánh bại ý chí xâm lược
Việt Nam
của tập đoàn Nich xơn. Ngày 6-1-1973 Ông ta chỉ thị cho Kítxinhgiơ “Cần đạt
nhanh một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện khắt khe”[9].
“Điện Biên Phủ trên không” trong điều kiện miền
Bắc kinh tế rất khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém so với đối phương,
lại cùng lúc thực hiện nhiệm vụ, chống chiến tranh phá hoại, giải phóng miền
Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế với Lào và Cămpuchia, nhưng chúng ta đã thắng,
thực tiễn đó cho chúng ta bài học: Trong
điều kiện kinh tế, vật chất kỹ thuật còn hạn chế, nhưng một Đảng, một dân tộc,
đồng tâm nhất trí biết chủ động, sáng tạo, hoàn toàn có thể khắc phục những yếu
kém, giáng trả đích đáng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, dù cho
chúng tiến hành chiến tranh vũ khí công nghệ cao. Bài học giữ nguyên giá trị
hiện thực chủ động, sáng tạo bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bài học cho thấy, trước hết phải chủ động nâng
cao tinh thần yêu nước, tinh thần cảnh giác với mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược
của các thế lực thù địch, trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Ngay từ thời
bình, phải tuyên truyền giáo dục sâu rộng vấn đề này, vì trong khi tập trung
xây dựng kinh tế và hội nhập quốc tế làm cho đất nước giầu mạnh lên thì một số
người không hiểu sâu sắc điều đó, họ
ngộ nhận về “một thế giới đại đồng” và “ một Tổ quốc hòa bình, độc lập vĩnh
cửu”, nên với họ, không có kẻ thù, không có đối tượng tác chiến. Nhưng thực
tiễn không như họ nghĩ. Chiến tranh thế giới tuy chưa xảy ra, nhưng chiến tranh
cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh chấp đất liền, biển, đáo… đang
diễn ra ở nhiều nơi.Trên đầu nước ta, kẻ thù vẫn nhòm ngó và ấp ủ mưu đồ xâm
lược, chúng xây dựng các tổ chức chính trị phản động trong nội địa và lưu vong,
gây mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, vùng miền, kích động quần chúng biểu tình
chống Đảng, Nhà nước và sẵn sàng bạo loạn lật đổ. Chúng còn thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình” với hy vọng, cán bộ, đảng viên sẽ “tự diễn biến” để
chúng không đánh mà thắng. Tình hình nêu trên đòi hỏi Đảng, Nhà nước, phải chủ
động tuyền truyền giáo dục, để người dân cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống
phá, xâm lược của các thế lực thù địch. Theo đó, phải khơi dậy tinh thần yêu
nước, trong thời kỳ mới “nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức,
lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều thực hành vào
công cuộc yêu nước…”[10].
Chỉ dẫn đó cho thấy, phải làm cho mọi người nhận thức sâu sắc kinh tế - quốc
phòng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kinh tế phát triển, đất nước giàu mạnh
về mọi mặt cũng là tiềm lực và sức mạnh của quốc phòng. Ngược lại, một nền quốc
phòng vững mạnh, hiện đại, mới đủ sức bảo vệ phát triển nền kinh tế độc lập tự
chủ và tham gia xây dựng kinh tế. Tuy vậy, hai nhiệm vụ đó không thể thay thế
nhau và không phải là một. Nhận thức sâu sắc điều đó thì dù có khác nhau: người
trực tiếp sản xuất hay giám tiếp, là viên chức nhà nước hay giới kinh doanh, người
trong nước hay ở ngoài nước đều có thể góp phần mình vào sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong đó giữ gìn bí mật quốc gia, vì lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí
chung của tinh thần yêu nước.
Trong khi
chủ động làm tốt công tác chính trị tư tưởng, đồng thời phải chủ động chuẩn bị
các mặt khác, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù nếu chúng liều lĩnh xâm lược Tổ quốc.
Theo tinh thần đó, trước hết phải làm tốt công tác dự báo chiến lược. Đáp ứng đòi hỏi này phải theo dõi, bám sát tình hình,
đánh giá đúng tình hình đồng thời bổ sung những nhận định mới, từng bước hoàn
thiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, không để bị bất ngờ trong mọi tình huống. Lực
lượng bảo vệ Tổ quốc phải được chuẩn bị theo hướng chất lượng cao. Quân đội
nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc phải chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại; lực lượng dân quân tự vệ phải rộng khắp và thường xuyên tập huấn,
lực lượng dự bị động viên phải chuẩn bị theo hướng tuyển chọn đội ngũ cán bộ sĩ
quan được đào tạo và rèn luyện cơ bản, bổ xung kịp thời khi có thay đổi nhân
sự, định kỳ tập huấn cung cấp kiến thức mới, yêu cầu mới cho họ. Binh khí kỹ thuật, cơ sở vật chất từng
bước phải được tăng cường đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại, chống chiến tranh
vũ khí công nghệ cao, trước hết trang bị cho quân đội. Tuy nền kinh tế nước ta
còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát triển cao, nhưng vẫn phải có một tỷ lệ nhất
định để sản xuất hoặc mua sắm trang bị vũ khí cần thiết mà không chờ cho kinh tế phát triển thật đầy đủ mới sản xuất hoặc mua
sắm. Phải chuẩn bị chu đáo các khu vực phòng thủ. Theo đó, ở các khu vực này phải có các phương án chiến đấu
theo tưởng định, phải định kỳ diễn tập, thực hành bố trí kho tàng, bến, bãi, phải
thực sự, thực tế, không hình thức, hời hợt. Cần làm cho mọi người nhận thức sâu
sắc sẵn sàng diễn tập là hình thức huấn luyện tổng hợp thực tế, do đó các cấp,
các ngành, và toàn dân đều phải vào cuộc. Nên trách những biểu hiện “bớt xén”,
làm chiếu lệ trong quá trình củng cố và hoàn thiện các khu vực phòng thủ.
Phát huy tinh
thần chủ động, sáng tạo giành thắng lợi “Điện Biên Phủ trên không” Năm xưa (1972),
Đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Đại hội lần thứ XI của Đảng (2001)
chỉ rõ phải “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả tiềm lực và thế trận
xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân
vững mạnh trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Quyết định đó, cũng là
thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm theo chỉ dẫn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh phải thường xuyên quan tâm “củng
cố quốc phòng”[11]… “Phải
luôn luôn tỉnh táo, giữ vững lập trường quyết không được vì hoàn cảnh hòa bình
mà mất cảnh giác. Phải luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kẻ thù, bảo
vệ thành quả cách mạng bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân”[12]
[1] Ních Xơn
thăm Trung Quốc tháng 2-1972; thăm Liên Xô tháng 5-1972
[2] Mỹ thỏa
thuận với ta ngày 24-10-1972, Kitxinggiơ sẽ đến Hà Nội để ký tắt Hiệp định,
ngày 27-10-1972 công bố Hiệp định ở thủ đô hai nước; ngày 31-10 ký kết chính
thức tại Pa ri.
[3] Viện
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam Tập 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr 578
[4] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2000.
tr 108
[5] Viện
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam tập 2, Nxb CTQG, H 1995, tr 566
[6] Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam ,
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, H 1988, tr 267
[7] Viện
lịch sử quân sự Việt Nam ,
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, H 1988, tr 267
[8] Số liệu
dẫn trong Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 (1954-1975) Viện nghiên cứu chủ
nghĩa mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
[9]
Kítxinhgiơ, Những năm tháng ở Nhà trắng, Nxb Pâya, Pari, tr 1175
[10] Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 6, nxb CTQG, H 2000, tr 172
[11] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 12, nxb CTQG, H 2000, tr 505
[12] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H 2000, tr 311